Kinh tế học tổ chức
Bài viết này trong loại bài Kinh tế học |
Đề cương các chủ đề |
---|
Phân loại tổng quát |
Kinh tế học vi mô · Kinh tế học vĩ mô |
Các phương pháp kỹ thuật |
Toán học · Kinh tế lượng |
Lĩnh vực và tiểu lĩnh vực |
Hành vi · Văn hóa · Tiến hóa |
Danh sách |
Tạp chí · Ấn bản |
Các tư tưởng kinh tế Vô chính phủ · Tư bản |
Ăng-lô - Xắc-xông · Phong kiến |
Chủ đề Kinh tế học |
Hộp này:
|
Kinh tế học tổ chức (còn được gọi là kinh tế học của tổ chức; tiếng Anh: Organizational economics) liên quan đến việc sử dụng logic của phương pháp kinh tế để hiểu sự tồn tại, bản chất, thiết kế và hoạt động của các tổ chức, đặc biệt là các tổ chức được quản lý.
Kinh tế học tổ chức chủ yếu quan tâm đến những trở ngại đối với việc phối hợp các hoạt động bên trong và giữa các tổ chức (các công ty, liên minh, thể chế và thị trường nói chung).
Kinh tế học tổ chức được biết đến với sự đóng góp và sử dụng của nó trong:
- Lý thuyết chi phí giao dịch: chi phí phát sinh để tổ chức một hoạt động, đặc biệt là liên quan đến nghiên cứu thông tin, quan liêu, truyền thông, v.v.
- Lý thuyết cơ quan: tình huống khó xử liên quan đến việc đưa ra quyết định thay mặt, hoặc tác động đó, một người hoặc tổ chức khác.
- Lý thuyết hợp đồng: cách các tác nhân kinh tế sử dụng để xây dựng các thỏa thuận hợp đồng, nói chung là khi có thông tin bất đối xứng.
Các nhà lý thuyết và đóng góp đáng chú ý trong lĩnh vực kinh tế học tổ chức:[1][2][3]
- Kenneth Arrow
- James March
- Herbert Simon
- Oliver Williamson
- Ronald Coase
- Bengt Holmström
- Oliver Hart
- Jean Tirole
- Joseph Stiglitz
Tham khảo
Bài viết liên quan đến kinh tế học này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
|